ĐÔNG TRÙNG HẠ THẢO
20/07/2021 00:00
Nấm dược liệu từ lâu đã là một phần quan trọng của văn hóa và nền văn minh nhân loại, đặc biệt các loài trong giống Cordyceps được đánh giá cao do chứa nhiều hợp chất dược liệu (McKenna et al., 2002). Đông trùng hạ thảo Ophiocordyceps sinensis thuộc giống Cordyceps (hay còn gọi là Cordyceps sinensis) là một loại nấm dược liệu có phân bố rất hạn chế trong tư nhiên và được nuôi trồng trong điều kiên hoang dã. Gần đây, loài nấm này đã được nghiên cứu để nuôi trồng trong môi trường nhân tạo. Nấm đông trùng hạ thảo là các loài nấm kí sinh trên sâu non, nhộng hoặc sâu trưởng thành của một số loài côn trùng. Đến nay, các nhà khoa học đã phát hiện được hơn 400 loài nấm đông trùng hạ thảo thộc chi Cordyceps nhưng chỉ có 02 loài được chú trọng nghiên cứu nhiều là Cordyceps sinensis và Cordyceps militaris do chúng mang giá trị dược liệu cao (Liu et al., 2001; Li et al., 2006).
Ngoài tự nhiên, nấm đông trùng hạ thảo thường được tìm thấy vào mùa hè. Loài nấm C. sinensis phân bố chủ yếu ở các vùng núi cao trên 4000 m thuộc dãy Hymalaya như vùng Tây Tạng (Trung Quốc) và một số vùng thuộc Nepan, Butan. Loài nấm này mới chỉ nuôi trồng thành công trong môi trường hoang dã.
Loài nấm C. militaris tìm thấy ở vùng núi thấp hơn, ở độ cao 2000-3000 m so với mực nước biển, phân bố rộng hơn (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước trong khu vực Đông Nam Á). Nấm C. militaris có hàm lượng các chất có hoạt tính sinh học cao như cordycepin, manitol, cordypolysaccarid, superoxide dismutise, axit amin, adenosine và nhiều thành phần khác tương đương, thâm chí còn cao hơn của loài C. sinensis. Đây là những dược liệu quý giúp hỗ trợ và bổ sung sức khỏe hệ miễn dịch, tiêu hóa, tuần hoàn, thần kinh, hô hấp và hệ sinh dục của cơ thể con người (Ahn et al, 2000, Nan et al , 2001, Wang et al, 2006, Kim et al, 2006, Das et al, 2010). Việc nuôi trồng C. militaris trong điều kiện nhân tạo cũng khá thuận lợi (Li et al. 1995; Dong et al., 2012).
Ngày nay, đã có một số nghiên cứu về quy trình nuôi trồng nấm C. militarisis nhằm thay thế cho loài O. sinensis và có nhiều nghiên cứu quan trọng về gen, nhu cầu dinh dưỡng, môi trường nuôi cấy, các đặc tính sinh hóa và dược lý của nấm C. militaris. Gần đây, bộ gen hoàn chỉnh của C. militaris cũng được giải trình tự làm cơ sở cho nhiều nghiên cưu sâu hơn về loài nấm này (Zheng et al, 2011). C. militaris có thể nuôi trồng nhân tạo ở các quy mô khác nhau trong thời gian không ngắn (Li et al, 2006).
Quả thể của nấm Cordyceps militaris dùng làm thực phẩm, dùng trong các món hầm, súp, trà... ở các nước Đông Nam Á như Hongkong, Đài Loan, Trung Quốc. Quả thể và sinh khối nấm cũng được sử dung làm thuốc và bồi bổ sức khỏe dưới dạng nước uống, viên nhông, rượu, dấm, trà, sữa chua và nước chấm (Wang et al, 2006). Các loại dược phẩm từ nấm này dùng duy trì chức năng thận, phổi, chống lão hóa, điều hòa giấc ngủ, viêm phế quản man tính (Das et al., 2010). Hiện có hơn 30 loại sản phẩm chăm sóc sức khỏe từ C. militaris trên thi ̣trường (Huang et al., 2010).
Do giá trị dược liệu, giá trị kinh tế cao và tı́nh khả thi của việc nuôi nấm Cordyceps militaris ở các quy mô từ nhỏ đến lớn, việc phát triển các nghiên cứu về nuôi trồng nấm Cordyceps militaris nhằm tăng quy mô sản xuất, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và chuyển giao công nghê cho các đơn vị có nhu cầu sản xuất đem lại lợi ı́ch kinh tế cho địa phương là hết sức cần thiết.
Ngành Công nghệ sinh học, Trường Đại học Thủy Lợi đã thực hiện nghiên cứu thành công nuôi trồng nấm Đông trùng hạ thảo ở quy mô phòng thí nghiệm. Trong thời gian tới, các cán bộ bộ môn đang tiếp tục triển khai nghiên cứu xác định các chất có hoạt tính sinh học trên C. militaris bổ sung dinh dưỡng và tăng cường sức khỏe con người.